Nhân giống là gì? Các công bố khoa học về Nhân giống
Nhân giống là quá trình tạo ra những cá thể mới từ những cá thể đã có sẵn thông qua việc sao chép di truyền của chúng. Quá trình này có thể xảy ra tự nhiên hoặc...
Nhân giống là quá trình tạo ra những cá thể mới từ những cá thể đã có sẵn thông qua việc sao chép di truyền của chúng. Quá trình này có thể xảy ra tự nhiên hoặc được điều chỉnh bởi con người, và có thể áp dụng cho cả người, động vật, thực vật và vi sinh vật. Việc nhân giống có thể nhằm mục đích tạo ra những đặc tính mong muốn, cải thiện tài sản giống của loài, nghiên cứu sinh học hay để giữ gìn sự đa dạng di truyền của một sinh vật.
Quá trình nhân giống có thể được thực hiện theo nhiều phương pháp khác nhau, bao gồm:
1. Nhân giống tự nhiên: Đây là quá trình tự nhiên xảy ra trong thiên nhiên khi cá thể sản xuất những con cá thể khác thông qua quá trình sinh sản. Các con cá thể mới sẽ có di truyền từ cả hai cha mẹ.
2. Nhân giống nhân tạo: Quá trình này là sự can thiệp của con người trong việc tạo ra cá thể mới với những đặc tính mong muốn. Có một số phương pháp được sử dụng trong nhân giống nhân tạo bao gồm:
- Nhân giống qua phân tách phôi: Phương pháp này tách phôi từ cá thể mẹ và trồng nó trong môi trường thuận lợi để phôi được phát triển thành con cá thể mới.
- Nhân giống qua vô tính: Phương pháp này tạo ra những con cá thể mới chỉ từ một cá thể duy nhất mà không cần phải có sự giao phối. Các phương pháp như chúc tinh nhân tạo, phân kỳ tạo, hoặc cắt và ghép mô là một số ví dụ của nhân giống qua vô tính.
- Nhân giống qua giao phối chọn lọc: Phương pháp này vận dụng nguyên tắc của di truyền để tạo ra những con cá thể mới với những đặc tính mong muốn bằng cách kết hợp những cá thể có đặc tính tương ứng trong quá trình giao phối.
Quá trình nhân giống có thể áp dụng cho các loại sinh vật khác nhau như động vật (bao gồm cả người), thực vật, vi sinh vật (như vi rút và vi khuẩn) và thậm chí các loài động vật đã tuyệt chủng. Việc nhân giống có thể giúp cải thiện tài sản giống của loài, giữ gìn sự đa dạng genetic, nghiên cứu sinh học, tạo ra dược phẩm và trong nhiều lĩnh vực khác.
Dưới đây là một số phương pháp chi tiết được sử dụng trong quá trình nhân giống nhân tạo:
1. Phương pháp chế tạo cây giống:
- Chúc tinh nhân tạo: Kỹ thuật này sử dụng phương pháp thụ tinh ngoài cơ thể bằng cách thu thập trứng và tinh trùng từ hai cá thể khác nhau và hòa trộn chúng trong điều kiện cơ sở nghiên cứu. Sau đó, phôi được tạo thành được cấy vào tử cung của một cá thể cái para-cha hoặc thực vật mẹ chủ để phát triển thành con giống mới.
- Cắt và ghép mô: Phương pháp này liên quan đến việc tạo ra một cây mới bằng cách kết hợp các bộ phận tách biệt từ các cây khác nhau. Ví dụ, người ta có thể cắt một nhánh từ một cây cha mẹ và ghép nó vào một cây trưởng thành khác để tạo ra một cây mới có cấu trúc và chức năng kết hợp từ cả hai cây.
2. Phương pháp nhân giống động vật:
- Nhân giống bằng cách chế tạo phôi thai: Phương pháp này thực hiện bằng cách thu thập các tế bào phôi từ một con cái. Sau khi thu thập được các tế bào này, chúng được ghép vào một trứng phôi trùng hợp từ một con cái khác của cùng loài. Sau khi phôi thai phát triển thành được thành phôi, nó được cấy vào tử cung của một con cái mang trong quá trình mang thai và phát triển thành con giống mới.
- Nhân giống bằng cách chế tạo phôi thai trong ống nghiệm (IVF): Đây là phương pháp phổ biến trong nhân giống người và nhất là trong phương pháp hỗ trợ sinh sản (ART). Quá trình này bao gồm việc thu thập các tinh trùng và trứng của người cái, sau đó việc thụ tinh ngoài cơ thể xảy ra trong ống nghiệm hoặc ngoài cơ thể. Phôi được tạo thành sau đó được cấy vào tử cung của một người cái để tiếp tục phát triển.
3. Nhân giống vi sinh vật:
- Nhân giống vi rút: Vi rút có thể được nhân giống trong các môi trường đặc biệt, như trong các môi trường tế bào hoặc trong trứng nấu chín. Quá trình này có thể tạo ra hàng triệu con vi rút giống hệt nhau từ một mẫu vi rút ban đầu.
- Nhân giống vi khuẩn: Việc nhân giống vi khuẩn thường được thực hiện bằng cách chia tách và trồng một ít vi khuẩn trong điều kiện thuận lợi. Việc này cho phép vi khuẩn tăng trưởng và nhân lên với tốc độ nhanh chóng, tạo ra một lượng lớn các con vi khuẩn giống hệt nhau.
Quá trình nhân giống có thể phức tạp và đòi hỏi kỹ thuật chính xác để đảm bảo sự thành công. Khi áp dụng phương pháp nhân giống, người ta thường xem xét mục tiêu và đặc điểm mong muốn, như sự cải thiện di truyền, đặc tính vật lý hay sức khỏe, để chọn phương pháp phù hợp và tạo ra những con giống mới.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "nhân giống":
Ghép gan là phương pháp điều trị duy nhất có hiệu quả cho xơ gan giai đoạn cuối và suy gan cấp tính, nhưng sự thiếu hụt gan người hiến tặng là một trở ngại lớn cho việc ghép gan. Gần đây, các tế bào gốc đa năng cảm ứng (iPSCs) được tạo ra từ việc lập trình lại các nguyên bào sợi somatic, đã được chứng minh là tương tự như tế bào gốc phôi (ES) ở chỗ chúng có đặc tính đa năng và tiềm năng phân hóa thành tất cả các dòng tế bào
Các nghiên cứu chụp cộng hưởng từ (MRI) đã nhấn mạnh khả năng điều tra hàm lượng sắt trong não sống. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã kết hợp phương pháp T2* relaxometry và phân đoạn tự động của nhân nền dựa trên hình ảnh T1‐weighted được thực hiện trên các đối tượng khỏe mạnh, với mục tiêu mô tả những thay đổi liên quan đến tuổi tác ở thể tích và giá trị relaxivity liên quan đến sắt (R2*) của các cấu trúc này. Ba mươi đối tượng khỏe mạnh đã tham gia chụp MRI tại 3 Tesla. Giá trị R2* trung bình và thể tích đã được tính toán cho các cấu trúc phụ vỏ não được chọn (pallidum, putamen, thalamus và nhân đuôi). Kết quả của chúng tôi cho thấy có sự tương quan giữa giá trị R2* và nồng độ sắt được tính toán từ dữ liệu sau khi tử vong đã công bố. Hơn nữa, chúng tôi quan sát thấy có sự co lại/tăng cường sắt với mô hình khác nhau ở các vùng giải phẫu được chọn trong nghiên cứu này, cho thấy sự thay đổi liên quan đến tuổi tác trên các tham số MRI này là đặc trưng cho cấu trúc phụ vỏ não được xem xét. Cụ thể, putamen cho thấy sự giảm thể tích và sự gia tăng hàm lượng sắt, với vùng phía sau của cấu trúc này có vẻ dễ bị lắng đọng sắt hơn. Công việc của chúng tôi cho thấy việc kết hợp đo thể tích và ước lượng hàm lượng sắt trong MRI cho phép điều tra những thay đổi sinh lý thần kinh và bệnh lý thần kinh của nhân nền trong thời gian sống.
Giọng nói của con người là phương tiện chủ yếu để truyền đạt lời nói nhưng cũng là dấu vân tay cho danh tính cá nhân. Các nghiên cứu neuroimaging trước đây đã chỉ ra rằng việc nhận diện lời nói và danh tính được thực hiện thông qua các con đường thần kinh khác nhau, mặc dù âm thanh giọng nói tạo ra sự thống nhất cảm nhận. Điều quan trọng là, STS phải đã được gán cho việc xử lý giọng nói, với những đóng góp khác nhau của các phần sau và trước của nó. Tuy nhiên, thời điểm mà việc xử lý giọng nói và giọng nói phân kỳ hiện vẫn chưa được biết đến. Ngoài ra, vai trò chính xác của STS phải trong quá trình xử lý giọng nói cho đến nay vẫn chưa rõ ràng bởi vì tính liên quan hành vi của nó chưa được xác định. Ở đây, chúng tôi đã sử dụng độ phân giải tạm thời cao của magnetoencephalography và một nhiệm vụ kiểm soát lời nói để xác định các tương quan hành vi tạm thời: chúng tôi phát hiện ra, sau 200 mili giây kể từ khi kích thích xuất hiện, rằng hoạt động ở STS trước phải dự đoán hiệu suất nhận diện giọng nói hành vi. Cùng lúc đó, STS sau bên phải cho thấy hoạt động tăng lên trong quá trình nhận diện danh tính giọng nói, trái ngược với nhận diện lời nói, trong khi STS giữa bên trái cho thấy mẫu ngược lại. Ngược lại với STS bên trái nhạy cảm với lời nói, kết quả hiện tại đã làm nổi bật STS bên phải như một khu vực quan trọng cho việc nhận diện danh tính giọng nói và cho thấy rằng sự phân chia giải phẫu-chức năng của nó xuất hiện khoảng 200 mili giây sau khi kích thích xuất hiện. Chúng tôi gợi ý rằng thời điểm này đánh dấu việc xử lý âm thanh giọng nói độc lập với lời nói ở STS sau và sự định hình thành công của chúng về danh tính giọng nói ở STS trước.
Graphene nhăn, được tạo ra từ phương pháp phân hủy nhiệt và hóa học đơn giản, đã được tiến hành phân tích bằng nhiều kỹ thuật khác nhau và kết quả được báo cáo tại đây. Nghiên cứu Raman đã tiết lộ sự xuất hiện của carbon vô định hình có độ graphit hóa cao, điều này được thể hiện qua sự xuất hiện của năm đỉnh trong phổ bậc một đã được giải quyết. Kết quả này đã được xác nhận tốt qua phân tích XRD. Quang phổ XPS và FT-IR cũng xác nhận sự kết hợp các chức năng oxy vào xương carbon. Hình ảnh AFM và SEM của mẫu cho thấy một cụm các mảnh graphene nhăn có vài lớp. Hình ảnh TEM hiển thị một chuỗi các tập hợp gần như hình cầu của graphene, giống như nanohorns. Độ dẫn điện và trở kháng của mẫu đã được phát hiện là thấp, khiến vật liệu thu được trở thành ứng cử viên triển vọng cho nhiều ứng dụng thiết bị khác nhau. Do đó, khói dầu hỏa đã chứng minh là một tiền chất hiệu quả cho tổng hợp graphene lớp mỏng giống nanocarbon một cách dễ dàng.
Vôi hóa hình nhẫn trong ung thư tế bào gan là rất hiếm. Ung thư tế bào gan không được điều trị đôi khi bao gồm các tổn thương có vôi hóa. Ở đây, chúng tôi báo cáo một trường hợp ung thư tế bào gan có vôi hóa hình nhẫn.
Một người đàn ông 60 tuổi có khối u gan đã được chuyển đến Bệnh viện Đại học Y Tokyo. Ông có tiền sử viêm gan C mãn tính. Chụp cắt lớp vi tính cho thấy khối u gan có đường kính 20 mm ở đoạn 6 theo phân loại Couinaud, với sự vôi hóa hình nhẫn. Dựa trên hình ảnh không phổ biến này và tiền sử tiếp xúc của bệnh nhân với các vật chủ chính của
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10